Cổng thông tin điện tử Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh An Giang
  • Đầu mối kiểm soát thủ tục hành chính
    tại Ban Quản lý Khu kinh tế
    pcgiat@angiang.gov.vn
    0296.3952.507
  • Phòng Tổng hợp UBND tỉnh
    thutuchanhchinh@angiang.gov.vn
    0296.3957.006
  • Thường trực Tổ Kiểm tra Công vụ tỉnh
    thuộc Sở Nội vụ
    kiemtracongvu@angiang.gov.vn
    0296.3957.049
Video
  • Hiệu quả nhìn từ kinh tế biên mậu
  • Thủ tướng Phạm Minh Chính làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy An Giang
  • Thủ tướng Chính phủ dự Lễ khởi công đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng giai đoạn 1
  • Hội nghị BCH Đảng bộ tỉnh lần thứ 11
Thông tin tuyên truyền

Tổng lượt truy cập

Tình hình dịch covid 19
An Giang tăng cường thực hiện các biện pháp khoanh vùng, cách ly triệt để, dập dịch, phòng, chống dịch COVID-19
  •  Báo An Giang
  •  14/08/2021
  • A- A A+

- Chiều 13-8, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Lê Văn Phước đã ký Công văn 859/UBND-KGVX về việc tăng cường thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19, nhằm mục tiêu ngăn chặn, khoanh vùng, cách ly triệt để, dập dịch kịp thời, không để dịch tiếp tục bùng phát, lan rộng để bảo vệ sức khỏe nhân dân, hạn chế thấp nhất số ca mắc, số tử vong và giảm thiểu tác động đến phát triển kinh tế - xã hội.

Responsive image

Theo đó, UBND tỉnh yêu cầu thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể và Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố cần bám sát các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19, Bộ Y tế và của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, phát huy cao độ tính chủ động, sáng tạo để chuẩn bị sẵn sàng các kịch bản theo phương châm “4 tại chỗ”.

Căn cứ quy định tại Quyết định 2686/QĐ-BCĐQG của Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 chủ động áp dụng các biện pháp bảo đảm đúng tinh thần có thể cao hơn, sớm hơn, nhưng không được thấp hơn, chậm hơn; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm các vi phạm quy định phòng, chống dịch.

Trong điều kiện dịch bệnh xuất hiện ở nhiều địa phương, tất cả các địa phương đều cần thực hiện nghiêm túc phương châm “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người” để phát hiện những người đến, về từ địa phương khác. Xử lý nghiêm người đến, về từ địa phương khác không khai báo và chính quyền cấp cơ sở khi không nắm được và không thực hiện các biện pháp quản lý y tế đối với người đến, về từ địa phương khác.

Khi thực hiện giãn cách xã hội nhất thiết phải thực hiện nghiêm, thực chất; tuyệt đối tránh tình trạng hình thức, “chặt ngoài, lỏng trong”. Khi đã thực hiện giãn cách xã hội (ở mức độ nguy cơ cao nhất theo Quyết định 2686/QĐ-BCĐQG và theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ) phải đảm bảo đúng tinh thần “ai ở đâu ở đó”.

Đối với những người buộc phải di chuyển để khám, chữa bệnh, thực thi công vụ, sản xuất, lưu thông… theo yêu cầu hoặc được sự cho phép của chính quyền, thì cần được quản lý chặt chẽ, tăng cường các biện pháp bảo vệ (như tiêm vaccine) và xét nghiệm thường xuyên. Đối với các hộ gia đình, cần tăng cường giám sát y tế để bất kỳ người dân nào có triệu chứng đều được hỗ trợ y tế kịp thời. Thực hiện tốt các biện pháp bảo đảm an sinh xã hội, không để bất kỳ người dân nào thiếu đói.

Xây dựng kế hoạch và thực hiện xét nghiệm có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm khoa học, hiệu quả; tránh lạm dụng xét nghiệm, lãng phí. Đối với các khu vực đang thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 16/CT-TTg, nếu cần xét nghiệm tầm soát cộng đồng ở những thời điểm nhất định, thì thực hiện lấy mẫu đại diện gia đình, xét nghiệm mẫu gộp; dành nguồn lực xét nghiệm để tăng tần suất đối với khu vực bệnh viện, các đối tượng nguy cơ cao (phải di chuyển ra khỏi nhà), người cao tuổi, có bệnh nền.

Chủ động phân loại và thực hiện cách ly F0, F1 tập trung hoặc tại nhà căn cứ tình hình dịch bệnh ở từng địa bàn và điều kiện cụ thể của từng trường hợp nhằm đảm bảo an toàn, không để lây nhiễm chéo (nếu cách ly tập trung) và lây lan ra cộng đồng (nếu trường hợp cách ly tại nhà phải có kiểm tra đủ điều kiện về nhà ở: nhà vệ sinh, phòng ốc…, có cam kết và giám sát chặt chẽ).

Việc tổ chức các tầng điều trị (mô hình 3 tầng theo hướng dẫn của Bộ Y tế) cần vận dụng linh hoạt phù hợp với tình hình, điều kiện của địa phương. Đặc biệt, lưu ý không coi F0 chưa có triệu chứng là người bệnh để có phương án cách ly (tại các trung tâm thu dung điều trị khi bảo đảm đủ các điều kiện cần thiết) và chăm sóc phù hợp về dinh dưỡng, thể chất, tinh thần, nhằm giảm tỷ lệ F0 có triệu chứng. Đối với các bệnh viện (kể cả bệnh viện điều trị bệnh nhân COVID-19) cần bảo đảm nhân lực, thuốc, ôxy y tế, trang thiết bị theo quy định để bảo đảm số giường điều trị.

UBND tỉnh giao Sở Y tế chủ trì, phối hợp các đơn vị có liên quan và UBND các huyện, thị xã, thành phố có văn bản hướng dẫn cụ thể và thường xuyên kiểm tra đảm bảo đủ điều kiện thực hiện công tác phòng, chống dịch COVID-19 như sau:

Về ngăn chặn lây nhiễm, UBND tỉnh yêu cầu các địa phương đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ tiếp tục thực hiện nghiêm theo đúng yêu cầu của chỉ thị trên toàn địa bàn; thực hiện hiệu quả, chắc chắn và thực chất việc giãn cách theo nguyên tắc gia đình cách ly với gia đình, yêu cầu người dân “ai ở đâu thì ở đó”.

Xây dựng kế hoạch và triển khai ngay, trong thời gian nhanh nhất có thể phải thực hiện thần tốc xét nghiệm, tầm soát trên diện rộng, trước tiên tại các khu vực phong tỏa, có nguy cơ rất cao, nguy cơ cao và với người có nguy cơ lây nhiễm cao, các trường hợp có biểu hiện ho, sốt để kịp thời phát hiện và đưa các trường hợp nhiễm COVID-19 (F0) ra khỏi cộng đồng nhanh nhất; đồng thời tổ chức tốt việc điều phối, lấy mẫu, trả kết quả xét nghiệm kịp thời trong thời gian 24 giờ đối với RT-PCR.

Xây dựng kế hoạch lấy mẫu cho các nhà ở/hộ gia đình, khu dân cư trên địa bàn để tránh trùng lặp, bỏ sót, phát hiện sớm các trường hợp mắc COVID-19; áp dụng phương pháp xét nghiệm RT-PCR hoặc kháng nguyên nhanh.

Với khu vực nguy cơ rất cao (khu vực phong tỏa): lấy mẫu xét nghiệm cho toàn bộ người dân từ 3 - 5 ngày/lần tại nhà ở/hộ gia đình. Lấy mẫu gộp theo nhà ở/hộ gia đình hoặc tất cả những người sống trong cùng nhà ở/hộ gia đình để xét nghiệm RT-PCR (lấy mẫu gộp chung vào 1 ống), có thể thí điểm gộp mẫu 3 hoặc mẫu 5 đối với xét nghiệm kháng nguyên nhanh.

Khu vực nguy cơ cao: lấy mẫu người dân (có thể tăng tần suất nếu cần) tại nhà ở/hộ gia đình; lấy mẫu gộp các thành viên trong nhà ở/hộ gia đình (lấy mẫu gộp chung vào 1 ống), thực hiện gộp mẫu như trên.

Các khu vực khác: thực hiện giám sát và xét nghiệm tầm soát, lấy mẫu đại diện thành viên của nhà ở/hộ gia đình, trong phòng là người có tần suất tiếp xúc nhiều với các thành viên trong nhà ở/hộ gia đình, trong phòng hoặc người được phép đi ra ngoài nhà (đi lấy thực phẩm, làm nhiệm vụ, làm việc theo yêu cầu, khám bệnh chữa bệnh...).

Thực hiện xét nghiệm 3 ngày/ lần các trường hợp có nguy cơ cao tại các cơ sở khám, chữa bệnh, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu/cụm công nghiệp, người trực tiếp cung cấp các dịch vụ thiết yếu... Trường hợp cần thiết, có thể mở rộng phạm vi, đối tượng xét nghiệm. Tần suất lấy mẫu trong khu công nghiệp thực hiện theo Quyết định số 2787/QĐ-BYT. Thực hiện xét nghiệm tầm soát 100% với các trường hợp có biểu hiện ho, sốt, khó thở, viêm đường hô hấp… đến bệnh viện khám, chữa bệnh hoặc tại cộng đồng.

Tổ chức hướng dẫn người dân, người lao động tại cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu/cụm công nghiệp tự lấy mẫu xét nghiệm.

Về giảm các trường hợp tử vong: chuẩn bị các phương án cao nhất có thể cho điều trị, bảo đảm đầy đủ ôxy, máy thở, giường cấp cứu và các vật tư, trang thiết bị cần thiết khác trong thời gian sớm nhất. Thiết lập và chuẩn bị sẵn sàng đưa vào sử dụng nhanh nhất các cơ sở thu dung, điều trị theo mô hình tháp 3 tầng của Bộ Y tế, theo tiến triển và mức độ lâm sàng của người bệnh:

Đối với nhóm người bệnh nhẹ, không triệu chứng: chuẩn bị và sẵn sàng thiết lập các cơ sở thu dung, điều trị ban đầu COVID-19 từ các cơ sở trên địa bàn như khu ký túc xá, khu tái định cư, nhà thi đấu, các cơ sở lưu trú, khách sạn.... Lưu ý, tuyệt đối tuân thủ quy định phòng, chống lây nhiễm dịch bệnh, kiểm soát nhiễm khuẩn để tránh lây lan sang nhân viên chăm sóc, phục vụ và các khu vực xung quanh.

Đối với nhóm người bệnh mức độ trung bình, có triệu chứng: thiết lập các bệnh viện điều trị bệnh nhân COVID-19 từ các bệnh viện tuyến huyện. Tùy theo điều kiện thực tế của mỗi cơ sở để thiết lập khu vực hồi sức cấp cứu điều trị bệnh nhân nặng tại các cơ sở này.

Đối với nhóm bệnh nhân nặng, nguy kịch: Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang và Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh bố trí và bảo đảm số giường hồi sức tích cực với đủ điều kiện kỹ thuật hồi sức tích cực nâng cao như thở máy xâm nhập, lọc máu liên tục... để cấp cứu, điều trị người bệnh COVID-19 nặng và nguy kịch.

Các địa phương có số lượng người bệnh và nhu cầu điều trị tăng cao, giao Sở Y tế khẩn trương hướng dẫn thực hiện các giải pháp cụ thể đối với các trường hợp: mắc COVID-19 không có triệu chứng đang được chăm sóc, điều trị tại các cơ sở y tế; ca bệnh phát hiện tại cộng đồng (kết quả xét nghiệm RT-PCR dương tính với SARS-CoV-2) không có triệu chứng lâm sàng, có tải lượng vi rút thấp (giá trị CT ≥ 30); người bệnh đã đủ tiêu chuẩn xuất viện theo quy định của Bộ Y tế và trong thời gian tự theo dõi tại nhà, nơi lưu trú nếu có tái dương tính.

Các địa phương chịu trách nhiệm tổ chức các tổ công tác y tế, các tổ tư vấn, tổng đài tư vấn để giúp đỡ, chăm sóc người bệnh và kịp thời chuyển đến cơ sở y tế kịp thời khi có dấu hiệu chuyển nặng.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và tổ chức tốt việc quản lý, điều phối các nguồn lực để kịp thời tiếp nhận, điều trị bệnh nhân; chủ động nhân lực y tế, kể cả huy động lực lượng của các ngành và tư nhân.

Các địa phương chịu trách nhiệm tổ chức công tác khám chữa bệnh bảo đảm chăm sóc y tế cho mỗi người dân khi có nhu cầu ở mọi lúc, mọi nơi. Tổ chức khám, điều trị cho người có bệnh lý nền, người cao tuổi tại nhà và được phép phát thuốc điều trị các bệnh mãn tính trong 3 tháng.

Về tiêm chủng vaccine: UBND tỉnh yêu cầu thực hiện đẩy nhanh tốc độ tiêm vaccine, tạo thuận lợi và bảo đảm an toàn cho người được tiêm. Tổ chức tiêm chủng cho tất cả các trường hợp từ 18 tuổi trở lên trên địa bàn; ưu tiên cho các địa bàn, khu vực đang có dịch và tiêm ngay cho lực lượng y tế tuyến đầu, người cao tuổi, các trường hợp có bệnh lý nền và lực lượng tuyến đầu về phát triển kinh tế (các nhà đầu tư, doanh nghiệp, khu công nghiệp, nhóm cung cấp dịch vụ thiết yếu, nhóm đảm bảo lưu thông, cung cấp hàng hóa thiết yếu,...). Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố quyết định đối tượng được tiêm phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu phòng, chống dịch trên địa bàn.

Huy động tối đa các lực lượng tham gia tiêm chủng bao gồm cả y tế nhà nước và tư nhân, các bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh, y tế các ngành..., tổ chức tiêm ngay cho lực lượng y tế cả nhà nước, tư nhân, dược sỹ, người lao động, người làm trong các nhà máy, doanh nghiệp sản xuất thuốc, trang thiết bị, sản xuất, lưu thông ôxy...; tổ chức tiêm tại các cơ sở cố định và nhiều điểm tiêm chủng lưu động tại các khu dân cư, cơ quan, đơn vị; chuẩn bị đầy đủ hệ thống kho bảo quản vaccine. Tuyệt đối không để xảy ra lãng phí trong tiêm chủng vaccine.

Bố trí nhân lực tiêm chủng và các bộ phận hỗ trợ làm việc toàn thời gian trong suốt thời gian tổ chức chiến dịch tiêm chủng. Không giới hạn số lượng người tiêm trong mỗi buổi tiêm chủng, phát huy tối đa năng lực của các điểm tiêm chủng nhưng phải đảm bảo giãn cách, không tập trung đông người. Thực hiện tiêm cuốn chiếu, khu vực nào xong khu vực đó để tạo ra vùng xanh an toàn trong khu vực đang bùng phát dịch.

 Tại các khu phong tỏa, chính quyền địa phương căn cứ số lượng người dân để bố trí các điểm tiêm chủng cố định hoặc lưu động phù hợp, tránh để người dân phải di chuyển đến các khu vực khác khi tham gia tiêm chủng.

Tiếp tục đẩy mạnh việc áp dụng nền tảng hồ sơ sức khỏe điện tử để quản lý và theo dõi tiến độ tiêm chủng.

Các tin khác :